Tình trạng “chạy theo thành tích” không chỉ thể hiện ở giáo dục phổ
thông, mà còn bộc lộ có phần mạnh mẽ hơn ở bậc đại học, cao đẳng.
Gần đây, những thông tin từ bài báo: “Nền giáo dục thành tích
làm vấn đề đạo đức xã hội trầm trọng hơn” đăng trên NNVN (7-6-2010) đã
được dư luận quan tâm. Đó là bài báo ghi lại lời phát biểu của 2 đại
biểu quốc hội Ngô Thị Minh (Quảng Ninh) và Huỳnh Văn Tí (Bình Thuận).
Đọc được bài báo, tôi rất hoan nghênh, và bày tỏ ngay những bức xúc
bấy lâu về tình trạng sút giảm của GD& ĐT nước nhà. Tôi rất đồng
tình với ý kiến của đại biểu Ngô Thị Minh khi đại biểu đặt câu hỏi hoài
nghi: “.. phải chăng Chính phủ mong muốn ngành giáo dục phấn đấu để chạy
theo thành tích, phấn đấu để đạt 200 sinh viên/1vạn dân vào năm 2010?”.
Phải công nhận với nhau rằng, nền giáo dục của chúng ta hiện nay đang
chạy theo thành tích. Nếu không chạy theo thành tích thì làm sao chỉ
trong thời gian 11 năm từ 1998 đến 2009 đã có 304 trường ĐH - CĐ được
thành lập và năm học 2008-2009 tổng quy mô đào tạo ĐH,CĐ là 1.719.499
sinh viên, tăng gấp 13 lần so với năm 1987? Và, nếu không chạy theo
thành tích thì làm sao tỷ lệ sinh viên/số dân (1 vạn dân) năm 1997 mới
80, năm 2009 đã lên 197, gấp 2,44 (số liệu này lấy theo báo Nhân Dân số
ra ngày 13/6/2010)? Quả là những con số đáng kinh ngạc. Nếu tôi nhớ
không nhầm thì trên thế giới chưa có một quốc gia nào có tốc độ giáo dục
tăng
nhanh như vậy. Ngày xưa một gia đình, một làng có một cậu học trò đậu
ĐH, CĐ đã là chuyện trọng đại; ngày nay một gia đình 2-3 con học ĐH, một
làng có mươi người học ĐH đã là chuyện không hiếm. Có thể nói không sai
rằng ĐH, CĐ đang mở cửa cho tất cả mọi học sinh tốt nghiệp THPT, dĩ
nhiên ở đây có những trường chất lượng đào tạo cao, nhưng cũng có những
trường chỉ cần có tiền nộp đủ là được học. Nguy hiểm của nạn giáo dục
ĐH, CĐ hiện nay là đào tạo tràn lan, số lượng trường không đi đôi với
chất
lượng đào tạo (chỉ tính riêng số giảng viên, từ năm 1987 đến năm 2009
tăng 3 lần, trong lúc số sinh viên tăng 13 lần). Không chỉ dừng ở đó,
đào tạo tràn lan còn chứng tỏ một điều là mối quan hệ giữa đào tạo và
nhu cầu sử dụng của xã hội là mối quan hệ “trống đánh xuôi, kèn thổi
ngược”, đào tạo thì cứ đào tạo, việc nhu cầu xã hội thì phận ai nấy lo.
Tình trạng sinh viên sau khi tốt nghiệp không có việc làm ngày càng
tăng, một bộ phận không nhỏ sinh viên sau khi ra trường đã không làm
đúng nghề
nghiệp theo chuyên môn đào tạo, hoặc lao động chân tay, bỏ phí kiến thức
học được. Quả đúng như lời đại biểu Ngô Thị Minh “Việc chạy theo thành
tích ấy đã gây ra hậu quả là chất lượng đào tạo giảm sút và đa số thanh
niên đang phải gánh chịu”. Đào tạo tràn lan còn dẫn đến tình trạng đánh
đồng trình độ, năng lực của các sinh viên, bởi tất cả các sinh viên đều
có cùng một bằng cấp (cử nhân), cùng một thời gian đào tạo. Tôi cho rằng
điều này rất nguy hiểm, bất cập trong tuyển dụng (lối tuyển dụng
không căn cứ chủ yếu vào năng lực thực tiễn), không tận dụng được nhân
lực, bỏ phí những người tâm huyết, gây sự thiệt thòi, gây hoài nghi
trong xã hội. Mà, đối tượng chịu thiệt thòi nhất, chịu ảnh hưởng mạnh
nhất trong vấn đề này là người nông dân và con em của họ. Một gia đình
nông dân phải cố gắng rất lớn mới nuôi nổi một người con học đại học.
Con em nông dân đi học cũng hết sức khốn khổ. Họ thiếu mọi điều kiện
thuận lợi để phục vụ học tập, nhưng đa phần họ là những học trò cố gắng,
học
bằng năng lực thực sự, bởi đó là con đường duy nhất giúp họ thoát khỏi
hoàn cảnh (khác với các đối tượng khác). Nhưng, ra trường, họ không có
việc làm, không đủ sức cạnh tranh đối với những cô chiêu, cậu ấm (nhất
là trong vấn đề cạnh tranh vào công tác tại cơ quan nhà nước). Tôi cho
rằng đây là biểu hiện của sự phân hoá giàu nghèo, và về lâu dài tình
trạng phân hoá này càng trầm trọng,
kinh tế càng đi lên sự phân hoá càng không thể giải quyết vì có nhiều mối ràng
buộc. Nhìn về bản chất, thì đó
là do kinh tế thị trường, lối sống thực dụng, lối tiêu thụ vật chất đang
tác động, chi phối mạnh mẽ lên mọi mặt. Hãy đặt một giả thiết, mọi
người, nhất là những ông thầy, những nhà quản lí làm đúng lương tâm của
mình, không tham lam, luôn trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức
nghề nghiệp,… thì có lẽ giáo dục Việt Nam vẫn xứng với truyền thống lịch
sử. Nói về thực trạng giáo dục đào tạo tràn lan, Báo Nhân Dân số ra
ngày 13/6/2010, trích lời của đại biểu Nguyễn Ngọc Minh tỉnh Ninh Thuận:
“tại hầu hết các tỉnh, thành phố hiện nay các trung tâm giáo dục thường
xuyên của Sở Giáo dục và đào tạo, các trường cao đẳng, trường chính trị,
trường dạy nghề, kể cả trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ của các đoàn thể
đều được phép liên kết với các trường đại học để tổ chức các cơ sở giáo
dục đại học tại chức rất dễ dàng, thu hút số lượng khá lớn các học viên
theo học. Các cơ sở đào tạo này không theo một tiêu chuẩn nào, trường
không ra trường, lớp không ra lớp… Việc tổ chức thi tốt nghiệp hết
sức sơ sài, dễ dàng, và tỉ lệ tốt nghiệp phổ biến là 100%”. Đây là một
vấn đề gây bức xúc lớn trong xã hội. Đáng lưu ý hơn đây là “hình thức
kinh doanh siêu lợi nhuận”, giáo dục chạy theo bằng cấp (học giả bằng
thật) còn leo thang sang cả lĩnh vực đào tạo sau đại học. Ngày xưa nếu
một sinh viên tốt nghiệp đại học lọai giỏi, thật sự có năng lực, thì mới
được đào tạo tiếp bậc sau đại học, còn ngày nay gần như quá dễ dàng
tham dự đào tạo thạc sĩ. Quan tâm trước tiên là “tiền đâu”, còn không
cần
băn khoăn “trình độ ở đâu để học”. Bởi, có cao học tập trung, chính quy,
có cao học tại các trung tâm liên kết, không tập trung, không khó để
lựa chọn nơi học thích hợp với trình độ, miễn là có tiền. Vậy kết quả sẽ
thế nào? Mọi người ai ai cũng đàng hoàng nhận học vị thạc sĩ. Có thể cả
xã hội biết chất lượng giáo dục có phân hoá giữa người được đào tạo
chính quy và người không được đào tạo chính quy, nhưng Nhà nước đã có
cách gì để phân biệt? Có thể phân biệt được giữa một học viên cặm cụi
học
tập, nghiên cứu, viết được hàng chục bài báo cho các tạp chí, hoàn thành
luận văn loại giỏi với một học viên làng nhàng nhưng cũng hoàn thành
khoá học, nếu chỉ nhìn vào hai chữ “thạc sĩ” ghi ở danh mục hồ sơ? Nhà
nước có lúc nào nghĩ đến cần phải phân biệt và đối xử (tương xứng với
chế độ) với những người khác nhau này không hay là cũng … “bánh đúc một
mẹt”? Chính vì vậy mà vô số kẻ đầu cơ, lợi dụng các trung tâm liên kết
để “chuẩn hoá”, “nâng cao trình độ” của mình, chủ yếu xuất phát từ nhu
cầu tiến thân. (Tôi cũng cung cấp thêm một ý nhỏ thế này: chẳng biết tại
sao lại chỉ có ở Việt Nam mới có các GS, PGS không tham gia giảng dạy,
không tham gia các trung tâm nghiên cứu). Nếu tình trạng này kéo dài thì
bản chất thực sự của giáo dục sẽ bị đi ngược lại. Không ít người nhận
định rằng, chưa bao giờ GD&ĐT xuống cấp đến vậy, bởi mọi bằng cấp
đều có thể dùng tiền để mua được dưới nhiều hình thức và cũng có thể
dùng tiền để mua được chỗ làm việc béo bở. Chính phủ phải làm gì? Bộ
Giáo
dục và Đào tạo phải làm gì để ngăn chặn thực trạng và những hệ luỵ đáng
buồn này? Nếu không, hậu quả, trên mọi mặt, càng về sau càng không lường
trước được.
Văn phòng tổng hợp – Huyện uỷ Thạch Hà – Hà Tĩnh
LTS Dân trí-
Qua thực tế mắt thấy tai nghe, mọi người có lương tri đều trăn trở vì
nền giáo dục của chúng ta đang chạy theo số lượng, mà chưa quan tâm đúng
mức đến chất lượng. Chính vì vậy mà đại học, cao đẳng tăng lên thật
nhanh, hòan tòan không tương xứng với đội ngũ giảng viên cũng như cơ sở
vật chất cần thiết bảo đảm cho chất lượng đào tạo. Việc đào tạo sau đại
học cũng đang trong tình trạng buông lỏng, không bảo đảm chất lượng
chuẩn mực cần thiết.
Hệ lụy của tình trạng này, bài viết trên đã nêu lên khá rõ. Các cấp
lãnh đạo và quản lý ngành giáo dục cũng đã thấy rõ mặt trái của tình
trạng phát triển ồ ạt đại học và cao đẳng, đã đề ra kế họach chấn chỉnh
và nâng cao chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng. Tuy nhiên, giữa nói
và làm, giữa kế hoạch và thực hiện thường còn khoảng cách khá xa. Thực
tế cuộc vận động “hai không” trong ngành giáo dục đã cho thấy rõ điều
đó. Bao giờ nền giáo dục nước ta mới hết chạy theo thành tích, mới đạt
tới những mục tiêu theo chuẩn mực quốc tế và đáp ứng đúng nhu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước nhà? Trả lời câu hỏi này,
trước hết thuộc về trách nhiệm thuộc của những người có nhiệm vụ quản lý
ở tầm vĩ mô của ngành giáo dục-đào tạo.
Theo dantri.com.vn